Tiến sỹ sinh vật học Hà Sỹ Phu và cái nghiệp văn chương
"Đã mang lấy nghiệp vào thân Nguyễn Du Hà Sỹ Phu là một nhà khoa học tự nhiên. Anh viết luận văn tiến sỹ về vấn đề nuôi cấy mô và tế bào. Làm phó giám đốc Phân viện Sinh vật học Đà Lạt, với năng lực nghiên cứu khoa học xuất sắc, anh hoàn toàn có khả năng vươn tới đỉnh cao trong khoa học công nghệ để được vinh thân phì gia. Nhưng rồi, văn chương cứ như cái nghiệp đeo bám làm cuộc đời anh phải trải bao khổ ải, truân chuyên. Phải chăng vì cái nghiệp kiếp trước hay chỉ vì cái tâm quá lớn. Cái tâm gánh nặng nỗi lo đời. Cầm bút đối với Hà Sỹ Phu là nghề tay trái, nhưng cái tay trái này lại khuấy động cả "đất trời" nên ắt phải sinh chuyện. Anh trần tình :
Bài "
Chia tay Ý thức hệ " ra đời,
khiến ông bị "tông xe, giật túi", bị tù một năm vì tội đã dám cầm một bài
phát biểu của ông Võ văn Kiệt. Ngoài ba bài chính luận: " Dắt tay nhau đi dưới những tấm biển chỉ đường của trí tuệ ", " Suy nghĩ của một công dân ", " Chia tay ý thức hệ ", HSP có một số bài có tính chất văn học, một số câu đối, và thư từ gửi cho bạn bè. Câu đối của HSP là đề tài được nhiều người lưu ý, sẽ nói đến sau. Nhưng thư từ cũng sinh chuyện. Vì viết ba bức thư riêng gủi các ông Trần Độ, Hoàng Minh Chính và Lê Hồng Hà mà năm 1999 ông bị hỏi cung một tháng rưỡi rồi kết tội "vi phạm luật xuất bản" và bị tịch thu một dàn vi tính, trong đó có một printer laser. Đến năm 2000 vì viết thư trả lời hai nhà báo người Việt ở nước ngoài mà ông bị quy tội "phản quốc" nhưng sau 4 tháng trời hỏi cung thì kết luận chưa đến mức chịu hình sư, chỉ bị quản chế 2 năm và tịch thu một dàn vi tính nữa. Viết 5 bức thư mà mất 2 dàn vi tính. Ở xã hội ta, thư từ cũng phải trả giá đắt thật nhỉ! Việc chọn ngành khoa học tự nhiên của ông là một chọn lựa thích hợp với tư duy khúc triết, chính xác đầy tính chất toán học của ông. Nhưng một nửa con người ông đã mắc duyên nợ với văn chương từ thuở thiếu thời. Cụ thân sinh ra ông dạy chữ nho cho cả bốn con trai nhưng cụ tâm đắc nhất với người thứ ba, tức Nguyễn Xuân Tụ. Mỗi bài thơ, mỗi đôi câu đối xướng họa với bạn bè của cụ, cụ vẫn chờ dịp "chú Tụ" về để đọc, để ngâm, để bình, để cha con cùng cân nhắc từng chữ, từng ý, từng câu. Mặc dù là cán bộ nghiên cứu Công nghệ sinh học, nhưng những câu đối, bài thơ thù tạc lúc trà dư tửu hậu đã khiến cho lượng bạn bè của ông ngày càng thiên về văn chương thơ phú. Ong làm thơ, câu đối, viết văn, làm nhạc, viết báo. Nhiều câu đối được bạn bè thích thú, trích đưa vào truyện dài, truyện ngắn của mình. Nhưng biến đổi có ý nghĩa bước ngoặt trong việc cầm bút có lẽ là cuộc gặp gỡ với nhà thơ Bùi Minh Quốc. Hội Văn nghệ Lâm Đồng thành lập năm 1988 do nhà thơ Bùi Minh Quốc làm Chủ tịch. Nguyễn Xuân Tụ là một trong những hội viên sáng lập, ở ban Văn thơ mà sau thành Chi hội Văn học, lấy hai bút danh Tú Xuân và Hà Sĩ Phu (HÀ là một đại từ nghi vấn, chất vấn. Đặt tên Hà Sĩ Phu là đặt ra một dấu hỏi). Tuy mới quen nhau trong sinh hoạt văn thơ, nhưng với con mắt của một nhà thơ chuyên nghiệp, Bùi Minh Quốc lưu ý ngay đến nhữ¯ng bài thơ của HSP. Có cái gì đó không lẫn vào đâu được. Theo Bùi Minh Quốc kể lại thì tập thơ đầu tiên mà Hội Văn nghệ Lâm Đồng lúc đó dự định xuất bản là tập thơ của Hà Sĩ Phu. Tên tập thơ dự kiến là "Nước mắt cười". Nhưng rồi việc ấy chưa kịp thực hiện thì Bùi Minh Quốc đã bị mất chức Chủ tịch Hội vì chuyến đi "xuyên Việt". Do tập thơ của HSP chưa xuất bản. Bạn bè chỉ biết đến thơ ông qua một số bài ông viết tay gửi tặng bạn bè, một vài bài đăng rải rác trên báo này báo khác ở trong nước và ngoài nước, hoặc hãn hữu xuất hiện trong một tập thơ chung. Trong những bài thơ dù viết về "Tĩnh vật" hay "Động vật" như cây cột điện, con cua, con mực, cây thông … người ta đều thấy một chiều sâu rất động, một nội hàm đầy ắp và dồn nén. Ở Đà lạt, đứng trước một dinh thự, nhìn thấy những cây thông bị kẽm gai xuyên ngập vào tới tủy, chỉ vì trước đây người ta đã dùng kẽm gai quấn hờ qua những cây thông để làm hàng rào tạm. Rồi thông lớn lên, càng lớn thông càng nuốt kẽm gai vào lòng, đến mức nay muốn gỡ ra cho thông cũng không được nữa. Quanh dây kẽm, thân thông xùi lên như cặp môi sưng, như ẩn ức điều gì mà không nói được. Còn chính dây kẽm là thủ phạm làm đau những cây thông thì lại được hàng thông ngày càng nâng cao mãi lên cho kẻ trộm rộng chỗ chui vào.
Thật là một "bi kịch của sự phát triển" ! Con cua ở hang, bò ngang, bị luộc lên thì đỏ rực … xưa nay ai chẳng biết. Thế nhưng trong hai tâm trạng khác nhau, với hai cấu tứ khác nhau, HSP đã nhìn thấy hai thứ cua khác hẳn nhau:
Một loại cua của Chí Phèo nơi thôn dã, và một loại cua của thượng tầng, làm bộ khệnh khạng nhưng thực ra chỉ là bọn mãi thân cầu thực, mãi quốc cầu vinh. Cũng như nhiều nhà nho học và làm câu đối, HSP cũng đem thú chơi chữ vào thơ .Hai bài về chuyện "nước" có thể là ví dụ. Cái nghịch cảnh ngoài trời thì mưa tầm tã, nước tràn trề, mà vòi nước trong nhà thì tắc :
Và cái cảnh một giếng chung, ai cũng vục gàu khua đục mà chẳng ai nghĩ chuyện tu sửa :
Vui nhất là bài thơ chơi chữ để đùa nhà thơ Xuân Sách khi nhà thơ này bị thu tập sách "Chân dung nhà văn" :
Và bài thơ tặng nhà thơ Cộng sản Bùi Minh Quốc khi ông bị khai trừ Đảng:
Đùa Nguyễn Thanh Giang bằng lối thơ lòng vòng, khi ông vừa được phong Viện sĩ, vừa bị Công an Việt Nam bắt :
HSP thường nói với bạn bè về cái tật thích chơi chữ :
Có khi ông đùa một cách rất nghiêm chỉnh. Ây là cái năm Con Chuột (1984), khi còn ở trong một căn nhà Ổ chuột, bị chuột tàn phá hết mọi thứ, buộc lòng ông phải viết một "kiến nghị" kính cẩn gửi lên bác Chuột chủ nhà (vì nhà ấy là nhà Ổ chuột) như sau:
Tuy vậy, bên cạnh những câu thơ đau đời, nghiệt ngã, cũng có những câu trữ tình mượt mà Ông mượn vẻ đẹp cảnh vật để tả vẻ đẹp thân hình:
Mượn tình yêu đôi lứa để nói triết lý đời là bể khổ:
Và một đoạn trong bài Mùa thu không trở lại :
Về hình thức thơ, đáng chú ý là lối thơ sáu câu. Lục bát sáu câu như bài:
Thất ngôn sáu câu như bài:
Hình như đây là những bài thơ cần tính triết lý. Cái luận lý "Tam đoạn luận" chỉ cần ba nhịp, mỗi nhịp hai câu. Ba nhịp vừa đủ để khép lại một dòng luận lý, hai nhịp thì chưa chặt mà bốn nhịp thì thừa. Khác với Văn và Thơ, Câu đối của HSP được biết đến nhiều hơn. Có lẽ vì thời nay người làm câu đối cho ra câu đối thì ít, mà câu đối HSP lại thật ấn tượng, rất thâm nho nhưng rất hiện đại, rất tân thời. Ong làm câu đối cho bạn bè, cho mình và cho thế sự. I. Câu đối thế sự : Dịp gợi hứng nhất để làm câu đối là những dịp Tết, mỗi Tết dính đến hai "con giáp", một con tiêu biểu cho năm cũ đang qua, một con là năm mới sắp đến. Xin ví dụ vài câu đối Tết, mỗi câu mỗi chữ đều là một trò chơi chữ, đều ẩn dấu một gánh nặng ưu tư :
Cũng trong những dịp Tết HSP thường mời bạn bè xướng họa bằng cách ra những vế "mời đối". Năm Khỉ có vế mời đối : "Ngộ có ngộ không, ngộ không ngộ, ngộ không là khỉ !". Vế này khó vì "Ngộ không" vừa là tên nhân vật của Tây du ký, chữ "không" cũng có nghĩa riêng, còn chữ "ngộ" thì vừa nghĩa là ta, vừa nghĩa là giác ngộ, vừa nghĩa là điên dại, vừa nghĩa là họa hoằn, may ra. Vế đối có thể hiểu thành rất nhiều nghĩa. Vế này đã có nhiều người đối, đăng đặc san Văn nghệ, trong đó có nhiều câu hay. Năm Canh Thìn sang Kỷ Tỵ có vế mời đối : "Trời đã sang CANH, đừng vị KỶ !". Vế mời đối rất đơn giản, sáng sủa và đáng yêu. Đã có mấy chục vế ứng đối, trong đó có nhiều câu hay. Năm GIÁP TÝ (1984) ông đùa trêu một người bạn gái, nhưng nói trệch đi là tặng cụ Võ nguyên Giáp: "GIÁP tý thì GIÁP, chẳng GIÁP thì thôi, GIÁP tý lại thôi, đừng có GIÁP !". II. Câu đối cho bạn bè:
Trên đây chỉ là vài ví dụ. HSP đã "phải" làm rất nhiều câu đối viếng, câu đối mừng cho những người thân, người quen. Người ta thích câu đối của ông vì các câu thường đối rất chọi, hay dùng những tên tuổi hay "điển tích" gắn liền với nhân vật của câu đối, khiến cho câu đối gắn chặt với con người ấy, câu đối ý nhị, có hồn, không thể lẫn sang ai khác được. Nhiều câu đối ông nghĩ rất nhanh, nhiều điều thú vị đã thành giai thoại, mà nội dung xin nhường lại cho một dịp khác. III. Câu đối cho bản thân:
Về phần văn, có bài Thằng Bờm, phần 1, đăng báo Văn nghệ, phần 2 đăng ở Pháp. Một số bài khác đã đăng báo Tuổi trẻ, Thanh niên. Truyện ngắn "Sấm Trạng Sần" đăng ở Pháp với bút danh Tạ Xích Thằng. Bài "Năm Mã nói chuyện Khuyển" gủi cho bạn bè, sau đăng nhiều báo nước ngoài. Tuy viết chưa nhiều, nhưng thiên hạ nhiều người đã mến, đã nhớ giọng văn của ông. Một lối văn rất tản mạn mà có chủ đề,vừa tự do vừa điển tích, vừa khiêm tốn vừa khinh bạc, mua vui mà lại gợi buồn … Đọc để chơi, mà cũng không phải để chơi. Như trên đã nói, nghề của tiến sỹ khoa học Nguyễn Xuân Tụ là Công nghệ Sinh học. Văn chương với Hà Sỹ Phu chỉ là cái nghiệp, là công việc tay trái. Nhưng, đây là một "tay trái" mà thiên hạ không thể bỏ qua, không thể lướt qua. Ở đời có cái làm chơi mà tai vạ thật, có cái làm chơi mà lợi ích thật. Việc đánh giá con người và tác phẩm HSP vẫn còn ở phía trước, tôi chỉ làm cái việc giới thiệu vài nét sơ bộ thôi. Kết thúc bài viết, tôi trở lại một câu đối mà chính HSP đã tự trào lộng về cuộc đời cầm bút của mình, ông bảo với người thân khi nào ông chết đi thì cứ khấn ông bằng câu đối đó:
Hoá ra, TRIẾT LÝ nghiêm chỉnh thì để mà Cười, còn làm THƠ khôi hài thì lại để Khóc ! Ông cầm bút chẳng qua là để được Cười được Khóc mà thôi. Hà Sỹ Phu đã từng cười với cuộc đời, còn ta, đôi khi ta không thể không khóc trước những bất lương, tàn bạo người ta đã giành cho một nhân tài như ông. Nhớ lại một lần, Hà Sỹ Phu ra vế đối : "Lê mác đi khó cứu Mác Lê" và tôi đã ứng đáp "Tụ xuân lại mà làm Xuân Tụ". Đấy cũng là lời cầu chúc, mong mỏi của người viết bài này. Hà Nội 1 tháng 11 năm 2003
|